Cấp điện mùa khô 2016: Tăng cường các phương án đảm bảo đủ điện

Do bị ảnh hưởng của El Nino, nhiều khu vực trên cả nước bị hạn hán nặng. Theo tính toán, sản lượng thủy điện năm 2016 có thể bị thiếu hụt khoảng 2 tỷ kWh. Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã tính toán các phương án đảm bảo cung cấp đủ điện trong mùa khô và cả năm 2016.

Nước giảm, phụ tải tăng cao

Tính đến cuối năm 2015, lưu lượng nước về các hồ thủy điện khu vực miền Trung và miền Nam ở mức rất thấp, nhiều hồ thủy điện gần như không có nước về. Mặc dù đã hạn chế việc huy động sản lượng các nhà máy thủy điện khu vực miền Trung và Nam, giữ nước cho mùa khô, nhưng mực nước các hồ vẫn thấp hơn so với hạn mức. Đến cuối tháng 2/2016, tổng lượng nước còn lại trong các hồ chỉ là 24,08 tỷ m3, bằng 73% tổng dung tích hữu ích các hồ thủy điện, thấp hơn 1,85 tỷ m3 so với cùng kỳ năm 2015. Trong đó, lượng nước còn lại các hồ thủy điện miền Trung và Nam còn 7 tỷ m3, thấp hơn 2,8 tỷ m3 và chỉ bằng 71,38% so với cùng kỳ năm 2015. 

Hiện nay, công suất đặt toàn hệ thống điện Việt Nam đạt 38.800 MW và phân bố không đều giữa các miền. Khu vực miền Bắc và miền Trung, do được bổ sung nhiều tổ máy nhiệt điện than mới, nên có dự phòng công suất và sản lượng tại chỗ lớn. Còn khu vực miền Nam chỉ có thêm Nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải 3 với 2 tổ máy tổng công suất hơn 600 MW, dự kiến hòa lưới điện quốc gia trong năm 2016 - 2017. Trong khi đó, nhu cầu phụ tải tiếp tục tăng cao, đặc biệt tại các tỉnh, thành khu vực phía Nam với công suất lớn nhất lên đến 13.500 MW, tăng 1.700 MW so với năm 2015. Vì vậy, mùa khô năm 2016, hệ thống điện miền Nam cần được truyền tải một sản lượng điện lớn từ hệ thống điện miền Bắc và miền Trung.

Năm 2016, dự kiến sản lượng truyền tải từ miền Bắc vào miền Trung chỉ riêng mùa khô là 6,5 tỷ kWh, cả năm là 13,67 tỷ kWh. Các đường dây truyền tải từ miền Bắc vào miền Trung sẽ phải mang tải cao trong cả năm để đảm bảo cấp điện cho miền Nam và vận hành tối ưu hệ thống. Đối với giao diện Trung - Nam, luôn mang tải liên tục ở mức cao, mùa khô là 6,15 tỷ kWh, cả năm là 17,7 tỷ kWh. Tuy nhiên, nhờ giới hạn truyền tải giữa Trung và Nam đã được tăng cường, sắp tới có thêm trạm 500 kV Pleiku 2 và đường dây Pleiku 2 - Cầu Bông, nên mức truyền tải như trên vẫn trong giới hạn an toàn.

Bên cạnh nhu cầu phụ tải tăng cao, một số hồ thủy điện còn có nhiệm vụ đảm bảo cung cấp nước phục vụ nhu cầu tưới tiêu, thau chua, rửa mặn, cấp nước phục vụ sinh hoạt cho nhân dân trong các tháng mùa khô. Trong điều kiện thiếu nước, khả năng đáp ứng đủ nước cho hạ du, đặc biệt tại các hồ thủy điện khu vực miền Trung và miền Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Điều này đặt ra áp lực rất lớn đối với Tập đoàn Điện lực Việt Nam và các đơn vị thành viên. 

Nước hồ thủy điện giúp vùng hạ du bớt "khát"

Tăng cường các phương án cấp điện

Theo ông Ngô Sơn Hải - Phó tổng giám đốc EVN, với nhiệm vụ cung cấp đủ điện đặc biệt trong mùa khô 2016, ngay từ những tháng cuối năm 2015, EVN đã lên kế hoạch, chuẩn bị sẵn sàng các phương án cấp điện. Theo đó, EVN đã chỉ đạo các đơn vị phát điện khai thác thủy điện ở mức phù hợp, ưu tiên cấp nước cho hạ du theo điều tiết của địa phương. Các hồ lưu vực sông Hồng khai thác cao do lưu lượng nước về tốt và xả nước phục vụ tưới tiêu cho vụ Đông Xuân khu vực Trung du và Đồng bằng Bắc bộ. 

Tuabin khí sẽ khai thác tối đa theo khả năng cấp khí và số tổ máy khả dụng để cấp điện cho miền Nam. Các nhà máy nhiệt điện than ở phía Nam, đặc biệt là Nhiệt điện Vĩnh Tân 2 và Duyên Hải 1 được khai thác ở mức cao. Dự kiến, sản lượng huy động từ 2 nhà máy này trong 6 tháng mùa khô năm 2016 là khoảng 6,57 tỷ kWh, và cả năm là 14,06 tỷ kWh, chiếm 19,3% tổng sản lượng nguồn điện miền Nam. 

Đối với nhiệt điện dầu, ngay từ giữa tháng 12/2015, EVN đã phải huy động các nguồn nhiệt điện dầu để đảm bảo cấp điện và giữ nước các hồ thủy điện miền Nam. Tổng sản lượng huy động 2 tháng ước đạt 122 triệu kWh, hiện nay vẫn duy trì chạy 1 tổ máy Nhiệt điện dầu Ô Môn với công suất 330 MW. 

EVN cũng chỉ đạo các đơn vị đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình trọng điểm trên lưới điện truyền tải như: TBA 500 kV Pleiku 2, các bộ tụ bù dọc trên cung đoạn từ Pleiku - Cầu Bông, đường dây 220 kV liên kết Bắc - Trung Vũng Áng - Ba Đồn - Đồng Hới… để tăng cường khả năng truyền tải giữa các miền; chỉ đạo Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia, các tổng công ty điện lực tăng cường kiểm tra, củng cố lưới điện, đảm bảo cung cấp điện an toàn, liên tục, tin cậy; đồng thời chuẩn bị đầy đủ vật tư, thiết bị, nhân lực để xử lý nhanh sự cố.

Ngoài ra, EVN sẽ phối hợp chặt chẽ với Tập đoàn Công nghiệp Than & Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN), Tổng công ty Đông Bắc, Tổng công ty Khí Việt Nam, đảm bảo đủ nguồn nhiên liệu than, khí cho phát điện và phối hợp chặt chẽ với các công ty phát điện thành viên của TKV, PVN và các đơn vị phát điện khác, đảm bảo nguồn phát cho hệ thống điện; phối hợp với Tổng cục Thủy lợi và các địa phương thực hiện tốt việc sử dụng nước hiệu quả, tiết kiệm. Bên cạnh đó, EVN còn đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao ý thức tiết kiệm điện và sử dụng điện hiệu quả của cộng đồng xã hội và các doanh nghiệp.

Đặc biệt, EVN và các đơn vị thành viên còn tính toán phương án sẵn sàng đảm bảo cung cấp đủ điện trong trường hợp phụ tải ngày, giờ tăng cao. Với tất cả các kịch bản đã xây dựng, sự nỗ lực, quyết tâm cao của EVN và các đơn vị thành viên, việc cân đối cung cầu điện năm 2016 dù khó khăn nhưng hy vọng sẽ được đảm bảo. 

Dự báo phụ tải hệ thống điện quốc gia:

 

Công suất cao nhất

Sản lượng

 

Năm 2015 (MW)

Năm 2016 (MW)

Tăng so với 2015 (%)

 

Năm 2015 (triệu kWh)

 

Năm 2016 (triệu kWh)

Tăng so với 2015 (%)

 

Mùa khô

25.254

28.723

13,74

78.694

89.382

13,58

Cả năm

25.828

28.810

11,55

164.326

184.803

12,46

                                                                                                                               Nguồn:Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia

 

Mực nước các hồ thủy điện (tính đến đầu tháng 3/2016):

Khu vực

Hồ

Mực nước (m)

So với năm 2015 (m)

So với MNDBT (m)

Miền Bắc

Sơn La

214,18

4,64

0,8

Hoà Bình

111,44

-2,79

-5,6

Thác Bà

51,65

-3,69

-6,4

Tuyên Quang

113,28

3,83

-6,7

Miền Trung

A Vương

370,14

-5,83

-9,9

Sông Tranh 2

173,94

2,64

-1,1

Ankhe

425,20

-3,11

-3,8

Kanak

502,82

-2,62

-12,2

Ialy

498,56

-13,36

-16,4

Miền Nam

Đa Nhim

1.038,24

0,26

-3,8

Hàm Thuận

595,82

-4,37

-9,2

Đa Mi

323,21

-0,56

-1,8

Trị An

57,49

-3,92

-4,5

Thác Mơ

212,29

-3,13

-5,7

 


  • 25/04/2016 09:19
  • Theo TCĐL Chuyên đề Quản lý và Hội nhập
  • 5421